Phương pháp phòng chống tình trạng thừa cân, béo phì cho trẻ nhỏ

Phương pháp phòng chống tình trạng thừa cân, béo phì cho trẻ nhỏ
7 phút, 38 giây để đọc.

Béo phì (TC-BP) là tình trạng tích tụ chất béo bất thường vượt quá mức ảnh hưởng đến sức khỏe của TC-BP ở cả nam và nữ và ở các độ tuổi khác nhau. 

Thực trạng và cách xác định béo phì ở trẻ

Ngày nay, TC-BP của trẻ em là một thách thức sức khỏe cộng đồng toàn cầu. Năm 2016, Theo ước tính của Tổ chức Y tế Thế giới đã có khoảng 41 triệu trẻ em dưới 5 tuổi và 340 triệu trẻ em từ 5-19 tuổi mắc TC-BP. Ở Việt Nam, đặc biệt là khu vực thành thị, tỷ lệ TC-BP đang có xu hướng tăng nhanh trong thập kỷ qua. Năm 1996, tỷ lệ TC-BP ở Hà Nội và Hồ Chí Minh là 12%, nhưng 13 năm sau (2009) tỷ lệ này là 43%. Theo kết quả điều tra năm 2014-2015, tỷ lệ trẻ béo phì ở TP. HCM là hơn 50%, khu vực nội thành Hà Nội là khoảng 41%. 

Thực trạng và cách xác định béo phì ở trẻ

Để đánh giá trẻ thừa cân, ngoài việc quan sát các chỉ số cơ thể, cân nặng và chiều cao của trẻ, chúng ta có thể đưa ra các nhận định sau: (1) Đối với trẻ 0-5 tuổi: Trẻ được coi là thừa cân khi chỉ số BMI hoặc chiều cao dao động từ 2 độ lệch chuẩn (SD) đến 3 <SD. Trẻ bị coi là béo phì nếu cân nặng hoặc chiều cao là SD 3 SD (2). Đối với trẻ từ 5 đến 19 tuổi: trẻ được coi là thừa cân khi mà các chỉ số khối của cơ thể theo tuổi (BMI-Zscore) từ +1 SD  đến < 2SD. Trẻ bị coi là béo phì nếu BMI-Z đạt điểm lớn hơn SD 2SD. 

Nguyên nhân dẫn đến béo phì

Trẻ bị TC-BP chủ yếu là do dinh dưỡng bất hợp lý và ít hoạt động thể lực. Khẩu phần năng lượng ăn vào vượt quá nhu cầu năng lượng của cơ thể , do đó năng lượng  dư thừa được chuyển thành mỡ tích lũy trong các tổ chức. do đó những trẻ có chế độ ăn giàu chất béo, đậm độ năng lượng cao có liên quan chặt chẽ với gia tăng tỷ lệ TC-BP

Trẻ có cân nặng sơ sinh quá cao, suy dinh dưỡng thấp còi đều có nguy cơ TC-BP – Trẻ ăn nhanh, hay ăn vặt, thích ăn ngọt, uống nước giải khát, thức ăn nhanh (fast food),  ăn nhiều vào buổi tối đặc biệt trước khi đi ngủ.

Nguyên nhân

Yếu tố di truyền: trẻ mang một số gen trong các nhóm gen như nhóm gen kích thích sự ngon miệng,nhóm gen liên quan đến tiêu hao năng lượng, nhóm gen điều hoà chuyển hoá, nhóm gen liên quan đến sự biệt hoá và phát triển tế bào mỡ.  Những trường hợp này thường gặp ở trẻ có bố mẹ bị thừa cân-béo phì.

Ngủ ít cũng được xem như một là một yếu tố nguy cơ cao đối với TC-BP ở trẻ dưới 5 tuổi. Một số tác giả cho rằng hoạt động tiêu mỡ của cơ thể đạt tối đa về đêm và ngủ ít làm giảm tiêu mỡ nói chung.

Hậu quả của thừa cân, béo phì đối với cơ thể trẻ

Thoái hóa khớp, đau thắt lưng: khi trọng lượng cơ thể tăng thì sức nặng đè lên các khớp càng lớn, nhất là vùng lưng, khớp háng, khớp gối, cổ chân làm cho các khớp này sớm bị tổn thương và lão hóa nhanh. 

Hệ nội tiết, chuyển hóa: tình trạng kém dung nạp glucose, kháng insulin, nặng hơn là bệnh đái tháo đường, rối loạn chuyển hóa mỡ máu, tăng acid uric gây bệnh gút.

thừa cân

Rối loạn tiêu hóa: dễ bị sỏi trong gan, gan nhiễm mỡ sớm do tiêu thụ lượng lớn đường fructose và chất tạo ngọt High fructose corn syrup  (HFCS) có trong nước có ga và các loại thực phẩm đóng hộp. Đường fructose và chất tạo ngọt HFCS đến gan sẽ chuyển hóa một phần thành acid béo gây tình trạng gan nhiễm mỡ

Ảnh hưởng đến tâm lý của trẻ: khi bé bắt đầu đi học, sẽ dễ bị tự ti do bạn bè trêu ghẹo, chế giễu, dẫn đến chán chường, không muốn đi học. Dần dần các em trở nên thụ động; thiếu linh hoạt và cô đơn vì không có bạn. Nếu tình trạng này kéo dài sẽ dẫn đến chứng trầm cảm.

Hệ tim mạch: tăng huyết áp, xơ vữa mạch máu, nhồi máu cơ tim, tai biến mạch não, hẹp tắc động mạch chi.

Hệ hô hấp: giảm thông khí, ngừng thở khi ngủ là một biến chứng rất nguy hiểm.

Mắc bệnh mãn tính khi tuổi trưởng thành: Trẻ TC-BP có thể không có biểu hiện bệnh ở thời điểm hiện tại; nhưng khi trưởng thành có nguy cơ mắc các bệnh mạn tính; không lây như các bệnh tim mạch, đái tháo đường, gan nhiễm mỡ

Cách dự phòng thừa cân, béo phì

Dự phòng cho trẻ em từ 0-5 tuổi

Dinh dưỡng hơp lý cho người mẹ trong thời gian có thai: Mức tăng cân hợp lý trong thời gian mang thai của bà mẹ là 10-12 kg. Cân nặng sơ sinh cao (>3500 gram) hoặc thấp (<2500gram) có nguy cơ TC-BP hơn trẻ có cân nặng sơ sinh trong khoảng từ 2500 gram-3500 gram.

Nuôi con bằng sữa mẹ: Cho trẻ bú sớm (trong vòng giờ đầu), bú mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu và tiếp tục bú kéo dài cho đến khi trẻ được 24 tháng.

 Cách dự phòng thừa cân, béo phì

Chế độ ăn bổ sung hợp lý: Cho trẻ bổ sung dinh dưỡng đúng thời điểm (khi trẻ tròn 6 tháng); ăn đủ số bữa theo lứa tuổi, khẩu phần ăn cân đối, phối hợp nhiều nhóm thực phẩm (nhóm lương thực, đậu đỗ, sữa/chế phẩm của sữa, thịt/các các loại, trứng các loại, rau các loại, các loại quả,củ quả có màu vàng/đỏ và nhóm dầu mỡ).

Tập thói quen cho trẻ ngủ sớm; ngủ đủ giấc: cha mẹ nên tập cho trẻ ngủ trước 21 giờ. Số giờ ngủ trung bình mỗi ngày tùy từng lứa tuổi: số giờ ngủ trung bình của trẻ sơ sinh; dưới 1 tuổi và từ 1-2 tuổi tương ứng là 14-17 giờ; 12-15 giờ và 11-14 giờ. Trẻ từ 3-5 tuổi là 10-13 giờ.

Tăng cường hoạt động thể lực: Tăng cường hoạt động thể lực cho trẻ qua các hoạt động như trượt trên cầu trượt, bập bênh, đu quay và các hoạt động ngoài trời ở sân trường, công viên và các khu giải trí khác

Theo dõi tăng trưởng của trẻ bằng biểu đồ tăng trưởng tại gia đình; và trường học để phát hiện sớm TC-BP để xử lý kịp thời

Dự phòng thừa cân, béo phì cho trẻ ở lứa tuổi 6-19 tuổi

Chương trình sữa học đường: Bổ sung sữa (không đường); vào bữa ăn học đường đã giúp cải thiện tình trạng dinh dưỡng; và chiều cao ở một số nước. Không sử dụng thức ăn nhanh, chiên rán nhiều dầu/mỡ

Chương trình bữa ăn học đường: đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm; và dinh dưỡng nhằm giúp trẻ phát triển tối ưu về thể chất và tinh thần. Thức ăn dành cho trẻ cần da dạng (đạt 5 trong 8 nhóm thực phẩm); đảm bảo cung cấp đủ nguồn protein động vật và thực vật. Bữa ăn ở trường và ở nhà cần được phân phối hợp lý.

Sử dụng muối i-ốt với một lượng ít dưới 4 gram/ngày. Không nên ăn mặn. Sử dụng nguồn thực phẩm sẳn có ở địa phương cho bữa ăn học đường. Uống nước chín (nước đã đun sôi).

Trẻ cần được ngủ đủ: trung bình 8-10 giờ mỗi ngày.

Cần có sự phối hợp liên ngành với nhau

Giải quyết TC-BP là vấn đề của toàn xã hội: trẻ em và thanh thiếu niên chưa nhận thức được nguy cơ; và hậu quả của TC-BP. Phòng chống TC-BP  cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa gia đình (phụ huynh) ;với nhà trường với toàn thể xã hội;  bao gồm các ngành nghề: truyền thông (tăng sự hiểu biết nhận thức về nguy cơ; và hậu quả của TC-BP), sản xuất (công bố chất lượng sản phẩm),; kinh doanh (căng tin nhà trường hạn chế hoặc không nên bán những thực phẩm có nguy cơ TC-BP); các cơ quan đoàn thể thuộc chính phủ ;và phi chính phủ (xây dựng luật, kiểm soát các hoạt động theo quy định).

Trên đây là những chia sẻ mà RCC muốn gửi đến các bậc phụ huynh. Hãy chăm sóc con mình thật tốt để tránh nguy cơ béo phì nhé! Chúc bạn thành công!

Nguồn: viendinhduong.vn

Tác giả

Huỳnh Hằng

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *